MRI Dây Chằng Chéo Trước (ACL)
1. Giải phẫu
• ACL là một cấu trúc ngoài hoạt dịch trong khớp.
toàn bộ chiều dài.
có thể phân được 2 bó này (Fig. 3.2).
thương.
AMB. Khi gối gấp 45 độ, ACL được trùng nhẹ.
• Vị trí bám của ACL tại xương đùi dài khoảng 23 mm, nhỏ hơn vị trí bám tại mâm chày, điều này
làm cho nó dễ bị tổn thương hơn. Khoảng 80% ACL bị tổn thương xảy ra ở điểm bám ở lồi cầu đùi
(Fig. 3.3a).
• ACL bám vào mâm chày bởi các sợi tỏa ra như một cái quạt giữa gai chày và sừng trước sụn chêm trong. Độ rộng tại vị trí bám trung bình khoảng 30 mm (i.e., lớn hơn vị trí bám tại lồi cầu đùi, Fig. 3.4).
Fig. 3.1 Hai bó sợi của ACL.
Bó trước trong (AMB) tạo nên phần trước của ACL, trong khi bó sau
ngoài (PLB) tạo nên phần sau. Nhìn
chung, ACL chịu áp lực tối đa khi gối duỗi tối đa và gối gấp 90 độ và áp lực
này tác động chính lên các sợi AMB, do đó tổn thương hay xảy ra ở AMB (Figure modified
from Girgis et al. 1975).
Fig. 3.2 hai
bó sợi của ACL trên MRI. AMB (mũi
tên) và PLB (đầu mũi tên) đôi khi
có thể phân biệt được trên MRI. Những bó này trải rộng tại vị trí bám mâm chày,
nhưng các sợi lại chạy theo kiểu xoắn ốc và có thể biểu hiện như là một bó tại
vị trí bám lồi cầu đùi.
Fig. 3.3 ACL trên khớp gối tử thi. (a) khớp gối duỗi và (b) khớp gối gấp nhẹ. ACL là một dây chằng chạy chéo trong rãnh liên lồi cầu. Tại vị trí bám ở lồi cầu đùi, phần ngoại vi của các bó sợi này bám vào mặt trọng của lồi cầu ngoài, tỏa ra như hình nan quạt (a, mũi tên). Khi gối gấp, ACL trở nên cách xa trần rãnh liên lồi cầu và biểu hiện dày hơn, điều này làm cho chúng ta dễ quan sát hơn trên mặt phẳng sagittal MRI (b)
Fig. 3.4 Vị
trí bám mâm chày của ACL. (a)
khớp gối trên tử thi (b) PDWI. ACL bám vào mâm chày trải rộng
như hình nan quạt giữa gai cahfy và sừng trước sụn chêm trong (mũi tên). Kiểu bám này cho phép nó bám
chắc vào mâm chày.
2. Cách tạo ra hình ảnh
• Hầu hết các hãng cung cấp coil khới gối hình trụ riêng biệt .
• Khi tạo ra hình ảnh bằng sử dụng coil khớp gối hình trụ, thì gối được chỉnh ở tư thế duỗi (Fig. 3.5a).
• Nếu sagittal images của khớp gối duỗi được đòi hỏi:
1. Bờ trước của ACL sẽ chạm vào trần rãnh liên lồi cầu, làm cho nó khó tạo ra được hình ảnh tổng thể
của ACL. Đây là vấn đề quan trọng bởi vì AMB tạo nên phần trước của ACL và dễ bị tổn thương.
2. Quan sát vị trí bám của ACL tại lồi cầu đùi trở nên không rõ ràng do hiệu ứng thể tích riêng phần
giữa ACL và mặt trong của lồi cầu đùi ngoài.
3. Tăng tín hiệu thường được sát thấy trong ACL và điều này được cho là do hiệu ứng góc ảo (magic
angle effect)
•
Bằng cách sử dụng một miếng đệm hoặc một
phương tiện hỗ trợ khác, khớp gối có thể được điều chỉnh ở tư thế gấp tối đa
30° (trung bình 15°) trong khi vẫn sử dụng coil khớp gối bên trong từ trường
siêu dẫn (Fig. 3.5b).
• Khi khớp gối gấp nhẹ, ACL trở nên tách ra trần rãnh liền lồi cầu, và biểu hiện dày hơn, điều này làm cho chúng ta dễ dàng quan sát nó trên mặt phẳng sagittal MRI. Tư thế gấp cũng cho phép quan sát rõ hơn vị trí bám của ACL vào lồi cầu đùi (Fig. 3.6).
•
Theo cách suy luận vậy,
thì ACL trông giống như một dải băng dẹp tại vị trí bám ở lồi cầu đùi, nhưng
bởi vì nó tách ra khỏi trần liên lồi cầu, nên nó giống như mộ sợi dây thừng do
các sợi xoắn quanh trục dọc. Đây là lý do vì sao quan sát ACL trên mặt phẳng sagittal
MRI trở nên dễ dàng hơn khi khớp gối gấp nhẹ.
• Gấp nhẹ khớp gối không tạo ra tác động bất lợi đến quan sát PCL và sụn chêm.
Fig. 3.5 (a) Coi khớp gối hình trụ có giá đỡ ở mắt cá.
Hầu hết các hãng cung cấp coil khớp gối hình trụ có giá đỡ ở mắt cá. Sử dụng
loại này theo hướng dẫn của nhà sản xuất thì khớp gối được điều chỉnh ở tư thế
duỗi.
Fig. 3.6 Sự khác biệt trong quan sát ACL khi khớp gối duỗi và gấp tương ứng trên Fig. 3.5. (a) Gối được chỉnh ở tư thế duỗi, tương ứng với hình Fig. 3.5a. (b) Gối được chỉnh ở tư thế gấp, tương ứng với Fig. 3.5b. Khi khớp gối gấp nhẹ, ACL trở nên tách xa khỏi trần rãnh liên lồi cầu, và nó trở nên dày hơn, làm cho chúng ta dễ dàng quan sát nó trên, sagittal MRI. Tư thế gối gấp cũng cho phép quan sát rõ hơn vị trí bám của ACL tại lồi cầu đùi (mũi tên).
3. Các dấu hiệu MRI ACL bình thường
• ACL chạy trong rãnh liên lồi cầu giữa các vị trí bám tại lồi cầu và mâm chày theo kiểu xoắn.
• Trên sagittal images, bờ trước của ACL là nhẵn và giảm tín hiệu trên tất cả các chuỗi xung (Fig. 3.7). Đây chính là các sợi AMB. Phần giữa và phần sau của ACL có thể tăng tín hiệu nhẹ do một số mô mỡ trong các sợi ACL.
• ACL thường có xu hướng biểu hiện tăng tín hiệu hơn PCL.
Fig. 3.7 ACL bình thường. PDWI (left, SE 2,000/20) và T2WI (right, SE 2,000/60) khớp gối. Trên sagittal images, bờ trước của ACL nhẵn và giảm tín hiệu trên tất cả các chuỗi xung. Đây là các sợi AMB. Phần giữa và sau của ACL tăng tín hiệu nhẹ do một số mỡ (mũi tên) trong các sợi ACL.
4. Các đặc điểm của rách ACL
• Rách ACL là loại rách dây chằng thường gặp.
• Điều này là do ACL dễ bị tổn thương hơn PCL vì các bó sợi mỏng và điểm bám nhỏ hơn.
•
Phụ nữ có khả năng
chống đỡ rách ACL gấp 4–8 lần so với nam, điều này được cho là liên quan đến hormone
tình dục ở nữ.
liên quan đến rách ACL có thể thay đổi.
a
Các nguyên nhân rách ACL
2.
Khớp gối duỗi quá mức
3.
Dừng hoặc nhảy trong
khi gối bị gấp nhẹ (e.g., chơi bong rổ hoặc bóng chuyền thường gặp hơn ở vận
động viên nữ)
5. Rách ACL hoàn toàn
• Rách toàn bộ tất cả các sợi của ACL.
• Khoảng 70% xảy ra ở phần trung tâm của ACL (Fig. 3.8). Khoảng 20% xảy ra ở vị trí bám vào lồi
cầu đùi (Fig. 3.9).
• Rách hoàn toàn tại vị trí bám ở mâm chày là hiếm gặp.
Các dấu hiệu trên MRI
• Mất liên tục các sợi ACL.
• Khá
dễ chẩn đoán rách hoàn toàn ACL trên MRI
(độ nhạy >90%).
Fig. 3.9 Rách
hoàn toàn ACL tại vị trí bám ở lồi cầu ngoài (a) PDWI và (b) axial FS
PDWI của một bệnh nhân nam 40 tuổi. ACL mất
liên tục tại vị trí bám lồi cầu ngoài (mũi
tên). Điều quan trọng là cần xác nhận tổn thương này trên cả 3 mặt phẳng
(i.e., sagittal, coronal, và axial, đầu
mũi tên)
6. Rách một phần ACL
•
AMB thường bị tác động
nhiều hơn PMB.
Các dấu hiệu trên MRI
• Các sợi có thể biểu hiện liên tục.
• Tăng nhẹ tín hiệu trong ACL hoặc gập góc dây chằng có thể thấy.
•
Ngay sau khi chấn
thương cấp tính, thì phù nề, xuất huyết, dày màng hoạt dịch có thể làm che lấp
đi hình ảnh chẩn đoán, làm cho việc phân biệt rách một phần và hoàn toàn rất
khó.
• Điều chỉnh gối ở tư thế gấp nhẹ, như mô tả ở trên, để quan sát tốt hơn bờ trước của ACL (Fig. 3.10)
•
Thu được hình ảnh với lát cắt mỏng nhất có thể và
với độ phân giải cao nhất có thể
Fig. 3.10 Rách
một phần ACL. (a)
PDWI, (b) coronal T2*WI, và (c) axial T2WI khớp gối của bệnh nhân nam 50 tuổi.
Trên sagittal image thì ACL tại vị trí bám vào lồi cầu đùi không thấy rõ (mũi tên), điều này nghi ngờ đến rách ACL,
nhưng khó xác định được chẩn đoán này nếu chỉ với một mặt phẳng đơn thuần. Quan
sát ACL trên cả coronal và axial images thấy tăng tín hiệu khu trú trong ACL tại
vị trí bám vào lồi cầu đùi (đầu mũi tên,
b and c), xác nhận chẩn đoán rách một phần.
7. Rách ACL cấp tính
Định nghĩa: rách “cấp” nghĩa là dưới 2 tuần kể từ thời điểm chấn
thương.
Các dấu hiệu trên MRI
• ACL biểu hiện phù nề và mất liên tục (Fig. 3.11).
• Tăng tín hiệu dạng đường trong dây chằng được nói là biểu hiện của rách mô kẽ.
•
Rách tại vị trí bám
lồi cầu đùi có thể biểu hiện như là một khối do xuất hiện khối máu tụ hoặc mô
hoạt dịch. Ngoài ra, hiệu ứng thể tích riêng phần do đầu gần của ACL và lồi cầu
đùi ngoài làm cho việc quan sát ACL không rõ ràng. Tuy nhiên, hiệu ứng này có
thể ngăn chặn được bằng cách chỉnh tư thế gối gấp nhẹ khi chụp MRI.
• Hiếm khi bỏ qua một tổn thương ACL, nhưng phân biệt giữa rách cấp tính hoàn toàn và một phần
có thể khó.
8. Rách ACL mạn tính
Định nghĩa: rách “mạn” nghĩa là trên 8 tuần kể từ thời điểm chấn thương. Trong giai đoạn này, hình ảnh biểu hiện của rách ACL có thể thay đổi.
Fig. 3.12 Rách
ACL mạn. 4 lát cắt sagittal liên tục của PDWI trên bệnh nhân nam 30 tuổi, 2 năm sau
chấn thương. Trong rãnh liên lồi cầu, ACL không còn quan sát thấy, ngoại trừ
các nhánh nhỏ như
8.2 Dải mất liên tục
• Vết tích của rách ACL biểu hiện như một cấu trúc dạng dải
•
Rách ACL tại vị trí
điểm bám lồi cầu đùi là thường gặp, và do đó phần ACL còn lại thường thấy bám
vào mâm chày (Fig. 3.13).
•
Phản ánh một lượng nguồn máu nuôi ACL phong
phú, đầu rách (mặt lồi cầu đùi) có thể thấy dính vào PCL (Fig. 3.14).
Nếu phần ACL đã rách dính vào PCL tại vị trí tương đối cao ở rãnh liên lồi cầu,
thì bạn có thể nhầm lẫn nó là một ACL bình thường (giả dây chằng) sau khi chỉ
nhìn trên một mặt phẳng sagittal. Đầu của ACL đã bị rách có thể dính vào trần
của rãnh liên lồi cầu (Fig. 3.15).
Fig. 3.13 Vết
tích của rách ACL bám vào mâm chày. 4 lát cắt sagittal
PDWI liên tiếp ở một bệnh nhân nữ 20 tuổi. Vết tích ngắn của ACL (mũi tên) được thấy bám vào mâm chày.
Fig. 3.14 Vết
tích của ACL đã rách dính vào PCL. (a) PDWI và (b) hình ảnh nội soi khớp của bệnh nhân nàm 20 tuổi. Vết tích ACL (đầu mũi tên) chạy chéo hướng đến PCL, và
đầu rách (mặt lồi cầu đùi) được thấy dính vào PCL (P, mũi tên)
Fig. 3.15 Vết tích của ACL đã rách dính vào trần rãnh liên lồi cầu. Nam trẻ tuổi có rách ACL mạn. PDWI được chụp ở tư thế duỗi (a) và gấp (b), và hình ảnh nội soi (c). Đầu vết tích ACL đã rách được thấy dính vào trần rãnh liên lồi cầu (mũi tên b) nhưng điều này lại không thây được.
9. Thoái hóa ACL
• Tuổi tác và nhiều lần chấn thương nhỏ dẫn đến thoái hóa nhầy (mucoid degeneration) trong ACL.
• Nếu thoái hóa này tiến triển ở mức độ cao, thì toàn bộ ACL này trở nên sưng nề và tăng tín hiệu, và các sợi này có thể quan sát thấy trên MRI. Hình ảnh lúc này của ACL được gọi là “ACL kiểu bó cần tây - celery stalk ACL” (Fig. 3.18).
•
Các thay đổi dạng nang
trong ACL dẫn đến nang có nguồn gốc từ ACL (ganglion) (see Chap. 12).
• Các thay đổi thoái hóa nhầy và dạng nang này có thể xảy ra cùng nhau, nhưng không được cho là
tác động đến sự ổn định của khớp gối (Fig. 3.19).
Nhận xét
Đăng nhận xét